Văn hóa Sumer

Dao găm vàng từ một lăng mộ tại Nghĩa trang Hoàng gia tại Ur.

Ngôn ngữ và chữ viết

Bài chi tiết: Ngôn ngữ SumerChữ hình nêm

Tiếng Sumer nói chung được coi như một ngôn ngữ biệt lập trong ngôn ngữ học bởi nó không thuộc một ngữ hệ nào từng được biết đến, khác với tiếng Akkad thuộc nhánh Semit của ngữ hệ Phi-Á. Đã có nhiều nỗ lực bất thành để tìm mối liên hệ giữa tiếng Sumer và các nhóm ngôn ngữ khác.[15][16][17][18][19] Trái ngược với ngôn ngữ Semit láng giềng, tiếng Sumer không có biến tố.[15] Nó là một ngôn ngữ chấp dính; nói cách khác, các hình vị ("đơn vị nghĩa") được thêm vào nhau để tạo ra các từ, không giống như các ngôn ngữ phân tích trong đó các hình vị được ghép lại để tạo ra câu.

Trong thiên niên kỷ 3 TCN, đã xuất hiện một sự cộng sinh văn hóa giữa người Sumer và người Akkad, và việc sử dụng song ngôn ngữ trở nên phổ biến.[104] Sự ảnh hưởng của tiếng Sumer lên tiếng Akkad (và ngược lại) được thể hiện rõ nét trong tất cả các khía cạnh, từ việc vay mượn từ vựng ở quy mô lớn, tới cú pháp, hình thái, và hội tụ âm vị.[104] Điều này đã khiến các học giả coi tiếng Sumer và tiếng Akkad ở thiên niên kỷ 3 TCN là một sprachbund (liên minh ngôn ngữ).[104]

Tiếng Akkad dần thay thế tiếng Sumer với vai trò tiếng nói phổ thông ở khoảng cuối thiên niên kỷ 3 đầu thiên niên kỷ 2 TCN,[105] nhưng tiếng Sumer vẫn tiếp tục được sử dụng như một ngôn ngữ linh thiêng sử dụng trong nghi lễ, văn học và khoa học tại BabyloniaAssyria cho tới thế kỷ thứ I.[106]

Bảng chữ viết thời kỳ đầu ghi lại việc phân phát bia, 3100-3000 trước Công nguyêm

Những khám phá khảo cổ học quan trọng nhất tại Sumer là một số lượng lớn các bảng đất sét khắc chữ hình nêm. Chữ viết Sumer là hệ thống chữ viết cổ nhất từng được phát hiện trên thế giới. Đây được xem như một bước ngoặt vĩ đại trong sự phát triển của nhân loại, với việc ghi chép lại lịch sử và sáng tạo ra các tác phẩm văn học cũng như luật lệ và tôn giáo. Ban đầu người Sumer sử dụng các hình vẽ – tương đương với chữ tượng hình, sau đó phát triển thành dạng chữ hình nêm và chữ kí hiệu. Họ dùng các que sậy có đầu hình tam giác hay hình nêm nhọn để khắc trên những phiến đất sét ẩm. Hàng trăm nghìn văn bản tiếng Sumer vẫn còn tồn tại, như thư tín cá nhân hay thương mại, hóa đơn, bảng từ vựng, luật pháp, thánh ca, lời cầu nguyện, các câu chuyện, ghi chép hàng ngày. Những ghi chép tại các đền đài và chữ khắc trên các vật thể khác nhau như bức tượng hay viên gạch cũng rất phổ biến. Nhiều văn bản vẫn còn nhiều bản sao tồn tại bởi chúng được sao chép liên tục bởi các kinh sư trong quá trình họ học nghề. Tiếng Sumer tiếp tục là ngôn ngữ của tôn giáo và pháp luật ở Lưỡng Hà một thời gian dài kể cả sau khi khu vực bị thống trị bởi các dân tộc Semit.

Một ví dụ tiêu biểu cho chữ viết hình nêm được sử dụng trong văn chương là các bài thơ về Bilgamesh được viết bằng chữ hình nêm Sumer chuẩn, kể về một vị vua từ Sơ kỳ triều đại II là Gilgamesh (hay "Bilgamesh" trong tiếng Sumer) và các cuộc phiêu lưu của ông cùng với người bạn thân là Enkidu. Đây được xem là một trong những tác phẩm văn học viết hư cấu cổ nhất được tìm thấy cho đến thời điểm hiện tại.

Nghệ thuật

Người Sumer là những người sáng tạo tuyệt vời, thể hiện qua nghệ thuật của họ. Các đồ tạo tác của người Sumer có rất nhiều chi tiết và hoa văn, với những loại đá bán quý được nhập khẩu từ các vùng đất khác, chẳng hạn như lưu ly, đá cẩm thạch, và diorite, và các kim loại quý như vàng cán. Vì đá rất hiếm nên nó được dành để điêu khắc. Vật liệu phổ biến nhất ở Sumer là đất sét nên nhiều đồ vật được làm từ đất sét. Các kim loại như vàng, bạc, đồng đỏ và đồng, cùng với vỏ sò và đá quý, được sử dụng để điêu khắc và chạm khảm. Những loại đá quý hơn như lưu ly, đá thạch cao và serpentine được sử dụng để làm con dấu hình trụ.

Một số tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng nhất là Đàn lia của Ur, được coi là loại nhạc cụ có dây lâu đời thứ hai trên thế giới được tìm thấy. Chúng được Leonard Woolley phát hiện khi khai quật Lăng mộ Hoàng gia Ur từ năm 1922 đến 1934.

  • Con dấu hình trụ và bản ấn, hình mặt tiền đền thờ; 3500–3100 TCN; làm từ đá vôi bitum; cao 4,5 cm; Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan (New York)
  • Ram trong bụi cây, 2600–2400 TCN; vàng, đồng, vỏ sò và đá thạch cao; cao 45,7 cm; từ Lăng mộ Hoàng gia Ur (Vùng tổng trấn Dhi Qar, Iraq); Bảo tàng Anh
  • Thang đo Ur, 2600–2400 TCN; vỏ, đá thạch cao đỏ và lưu ly khảm trên gỗ; dài 49,5 cm; từ Lăng mộ Hoàng gia Ur; Bảo tàng Anh
  • Trang trí đầu bò trên một cây đàn lia; 2600–2350 TCN; đồng dát vỏ sò và lapis lazuli; cao 13,3 cm, rộng 10,5 cm; Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan

Kiến trúc Sumer

Đại Ziggurat của Ur (Vùng ủy trị Dhi Qar, Iraq), được xây dựng thời Ur III, thờ thần mặt trăng Nanna

Đồng bằng Tigris-Euphrates không có khoáng vật và cây gỗ. Các công trình xây dựng Sumer được làm bằng gạch bùn phẳng-lồi, không trộn với vữa hay xi măng. Những công trình bằng gạch bùn sau cùng sẽ xuống cấp, vì thế theo định kì chúng bị phá hủy, đắp cao lên và xây lại trên cùng địa điểm. Công việc xây dựng liên tục này dần khiến nền của các thành phố cao lên, và trở nên cao hơn vùng đồng bằng xung quanh. Kết quả là những ngọn đồi, được gọi là các tell, xuất hiện trên khắp Cận Đông cổ đại.

Theo Archibald Sayce, những văn bản chữ tượng hình nguyên thủy của người Sumer thời kỳ đầu (ví dụ như Uruk) cho thấy rằng "Đá rất hiếm nên chúng được dùng cho điêu khắc và làm con dấu. Gạch là vật liệu xây dựng thông thường của các thành phố, pháo đài, đền và nhà cửa. Thành phố có các ngọn tháp và được xây trên những nền đắp cao; nhà cửa cũng có dạng hình tháp. Cửa nhà có bản lề, và có thể đóng mở bằng một loại khóa; cổng thành phố lớn hơn và có vẻ như như được làm hai lớp. Các viên đá hay gạch móng nhà được làm phép bằng một số vật thể chôn bên dưới."[47]

Các công trình ấn tượng và nổi tiếng nhất của Sumer là các ziggurat, cấu trúc bậc thang với đền thờ ở trên đỉnh. Những con dấu hình trụ của Sumer cũng thể hiện những ngôi nhà dựng từ lau sậy, nhưng không giống như kiểu nhà sậy của người Ả Rập đầm lầy ở phía nam Iraq những năm 400. Người Sumer cũng đã biết làm nhịp vòm trong các ngôi nhà mái vòm kiên cố bằng cách dựng và nối các vòm cuốn. Các ngôi đền và cung điện Sumer sử dụng các kỹ thuật và vật liệu tiên tiến hơn, như trụ ốp tường, hốc tường, bán cột, và đinh đất sét.

Quân sự

Những chiếc xe ngựa thời kỳ đầu khảm trên Thang đo Ur, khoảng 2600 TCNCác đội hình chiến trận trên một mảnh bia kền kền

Những cuộc chiến tranh hầu như liên tục giữa các thành bang Sumer trong suốt 2000 năm đã giúp phát triển các kỹ thuật và công nghệ chiến tranh của Sumer đạt tới trình độ tương đối cao.[107] Cuộc chiến đầu tiên được ghi chép đầy đủ là cuộc chiến giữa Lagash và Umma vào khoảng năm 2525 TCN trên một chiếc bia được gọi là bia kền kền. Nó thể hiện vị vua của Lagash chỉ huy một đội quân Sumer gồm chủ yếu là bộ binh. Những lính bộ binh mang giáo, đội mũ trụ đồng và mang các tấm khiên bằng da hình chữ nhật. Những người cầm giáo được thể hiện trong đội hình giống với đội hình phalanx, vốn đòi hỏi việc huấn luyện và kỷ luật; điều này cho thấy rằng người Sumer có thể đã sử dụng các chiến binh chuyên nghiệp.[108]

Các thành phố Sumer được bao quanh bởi tường thành bởi gạch bùn để phòng thủ trước sự tấn công của kẻ thù và các cuộc vây thành.

Toán học

Người Sumer đã phát triển một hệ thống đo lường phức tạp vào khoảng năm 4000 TCN. Hệ thống đo lường tiên tiến này dẫn tới sự ra đời của số học, hình học, và đại số. Từ khoảng năm 2600 TCN trở về sau, người Sumer đã viết nhiều bảng tính nhân trên tấm đất sét và đã biết giải các bài hình học và bài tính chia. Những dấu vết sớm nhất của chữ số Babylon cũng có từ giai đoạn này.[109] Khoảng năm 2700–2300 TCN chứng kiến sự xuất hiện lần đầu của bảng tính, và bảng phân định độ lớn của hệ thống số lục thập phân.[110] Người Sumer là những người đầu tiên sử dụng hệ thống số giá trị vị trí. Cũng có bằng chứng từ các huyền thoại cho rằng người Sumer có thể đã sử dụng một kiểu thước trắc tinh để tính toán thiên văn học. Họ là những người đầu tiên tính được diện tích tam giác và thể tích khối trụ.[111]

Công nghệ

Một trò chơi bàn cờ của người Sumer

Những ví dụ về công nghệ của người Sumer bao gồm: bánh xe, chữ hình nêm, số họchình học, hệ thống thủy lợi, thuyền Sumer, lịch mặt trăng, lịch mặt trời, đồng, da, cưa, đục, búa, nẹp, hàm thiếc, đinh, ghim, nhẫn, cuốc, rìu, dao, mũi giáo, đầu mũi tên, kiếm, keo, dao găm, túi da đựng nước, túi xách, dây nịt, áo giáp, ống tên, xe ngựa chiến tranh, bao kiếm, ủng, dép, harponsbia.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Sumer http://members.optusnet.com.au/~gtosiris/page11-4.... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/573176/S... http://books.google.com/?id=dWuQ70MtnIQC&pg=PA51&d... http://books.google.com/?id=i7_hcCxJd9AC&pg=PA147&... http://books.google.com/?id=tupSM5y9yEkC&pg=PA139&... http://books.google.com/?id=zmvNogJO2ZgC&pg=PA505&... http://books.google.com/books?id=BKRE5AjRM3AC&prin... http://books.google.com/books?id=lbmXsaTGNKUC&pg=P... http://books.google.com/books?id=pr8-i1iFnIQC&prin... http://ancientneareast.tripod.com/Sumer.html